THỜI ĐIỂM BẮT ĐẦU TÍNH THỜI HIỆU VÀ THỜI HIỆU YÊU CẦU CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ BẤT ĐỘNG SẢN LÀ KHI NÀO?

Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản và chia tài sản chung”

Trong thực tiễn xét xử, không ít trường hợp tài sản là bất động sản không có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, nhưng người dân đã sử dụng ổn định qua nhiều năm. Khi xảy ra tranh chấp, việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản này luôn là vấn đề nan giải, đặc biệt khi pháp luật quy định chặt chẽ về điều kiện chứng minh nguồn gốc đất. Án lệ số 26/2018/AL là một ví dụ điển hình, làm sáng tỏ tiêu chí để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Dân sự 2005 (nay là Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015).

Án lệ này không chỉ giúp giải quyết dứt điểm vụ việc cụ thể, mà còn là kim chỉ nam cho nhiều vụ tranh chấp dân sự tương tự trong thực tế.

1. Tóm tắt vụ án

Vụ án tranh chấp di sản thừa kế tại Hà Nội liên quan đến 612 m² đất và hai căn nhà 3 gian do cụ Cấn Văn K (mất năm 2002) và cụ Hoàng Thị T (mất 1972) để lại tại thôn T, xã P, huyện Th. Cụ K và cụ T có 8 con: ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, N2, M1, T1, H, ông Cấn Xuân T, và ông Cấn Văn S (mất 2008, để lại vợ Nguyễn Thị M và hai con).

Sau khi cụ T qua đời năm 1972, cụ K tái hôn với cụ Nguyễn Thị L năm 1973, sinh 4 người con: bà Cấn Thị C, bà Cấn Thị M2, ông Cấn Anh C, và bà Cấn Thị T2. Tài sản được cấp sổ đỏ năm 2002, đứng tên hộ cụ K, do cụ L và ông Cấn Anh C quản lý sau khi cụ K mất. Cả hai cụ không để lại di chúc.

Ngày 02/11/2010, các đồng nguyên đơn (con của cụ K và cụ T, gồm ông V, bà N1, N2, M1, T1, H, T, và bà Nguyễn Thị M thay mặt ông S đã mất) khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, yêu cầu chia tài sản chung của cụ T và di sản thừa kế của cụ K theo pháp luật. Họ đề nghị phần di sản của bà N1, N2, M1, T1, H, ông T, bà C, và bà Nguyễn Thị M được giao lại cho ông Cấn Xuân V để làm nơi thờ cúng cha mẹ và tổ tiên. Bị đơn là cụ L và ông Cấn Anh C (đại diện bởi ông Lê Hồng L), cho rằng tài sản đã được cải tạo và quản lý chung bởi gia đình, đồng thời lập luận thời hiệu khởi kiện đã hết do cụ K mất từ năm 1985.

Tại phiên sơ thẩm (Bản án số 1042/2012/DS-ST ngày 28/12/2012), Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội chấp nhận một phần yêu cầu, xác định di sản là 612 m² đất và các công trình, định giá đất 7,2 triệu đồng/m² (tổng 4,406 tỷ đồng) và công trình 116,9 triệu đồng, chia theo quy định thừa kế. Cụ L và ông Cấn Anh C kháng cáo, cho rằng thời hiệu đã hết và cần xem xét công sức cải tạo tài sản. Phiên phúc thẩm (Bản án số 106/2013/DS-PT ngày 17/06/2013) sửa một phần bản án sơ thẩm, điều chỉnh giá trị bồi thường nhưng giữ nguyên quyết định về thời hiệu.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, cho rằng cả hai bản án xác định sai thời hiệu khởi kiện. Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27/03/2017 hủy cả hai bản án, yêu cầu xét xử lại và yêu cầu xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu (từ ngày 30/08/1990) và thời hiệu 30 năm chia di sản bất động sản theo Bộ luật Dân sự 2015.

2. Nội dung tranh chấp

Nội dung tranh chấp trong án lệ số 26/2018/AL là yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất do cụ Cấn Văn K để lại sau khi mất. Các nguyên đơn là con của cụ K với người vợ đầu yêu cầu chia phần di sản, trong khi phía bị đơn (con của cụ K với người vợ sau) cho rằng các nguyên đơn đã không quản lý, sử dụng tài sản từ lâu và thời hiệu khởi kiện đã hết.

3. Nhận định của Tòa án

Trong Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27/03/2017, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa ra các nhận định then chốt, được phát triển thành Án lệ số 26/2018/AL, như sau:

Về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu: Tòa án xác định rằng, đối với trường hợp người để lại di sản bất động sản qua đời trước ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế (30/08/1990), thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là ngày 30/08/1990. Lý do là trước thời điểm này, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về thời hiệu yêu cầu chia di sản bất động sản. Pháp lệnh Thừa kế 1990 là văn bản pháp luật đầu tiên đặt nền móng cho việc xác định thời hiệu, tạo cơ sở để các đồng thừa kế thực hiện quyền yêu cầu chia di sản.

Về thời hiệu yêu cầu chia di sản: Theo khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu yêu cầu chia di sản bất động sản là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Trong vụ án này, thời hiệu được tính từ ngày 30/08/1990, kéo dài đến ngày 30/08/2020. Do nguyên đơn khởi kiện vào năm 2011, yêu cầu chia di sản của họ vẫn nằm trong thời hiệu hợp pháp, và Tòa án cấp dưới đã sai khi xác định thời hiệu đã hết.

Chỉ ra sai phạm của Tòa án cấp dưới: Cả Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đã không áp dụng đúng quy định về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu, dẫn đến việc từ chối quyền yêu cầu chia di sản của nguyên đơn một cách không hợp pháp. Tòa án cấp dưới cũng không xem xét đầy đủ các quy định chuyển tiếp của Bộ luật Dân sự 2015, vốn ưu tiên bảo vệ quyền lợi của các đồng thừa kế trong các vụ án có yếu tố lịch sử.

Trong Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27/03/2017, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm, yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử lại vụ án theo đúng quy định pháp luật. Tòa án cần xác định lại di sản, xem xét công sức cải tạo (nếu có) của các bên, và đảm bảo quyền lợi của các đồng thừa kế theo thời hiệu được xác định từ ngày 30/08/1990.

4. Bài học pháp lý rút ra từ vụ án

Án lệ số 26/2018/AL mang lại những bài học pháp lý sâu sắc, có giá trị thực tiễn cao trong việc giải quyết tranh chấp di sản thừa kế.

  • Xác định đúng thời điểm bắt đầu tính thời hiệu trong các tranh chấp thừa kế trước năm 1990

Một điểm đặc biệt quan trọng từ án lệ này là nguyên tắc xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện trong các vụ án chia di sản thừa kế có nguồn gốc từ trước năm 1990. Cụ thể, nếu người để lại di sản đã mất trước khi Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 có hiệu lực (tức là trước ngày 10/9/1990), thì thời hiệu khởi kiện không được tính từ ngày người đó qua đời, mà phải tính từ ngày 10/9/1990 – ngày hệ thống pháp luật về thừa kế chính thức được xác lập.

Việc xác định thời điểm mở thừa kế, đặc biệt trong các vụ án liên quan đến di sản từ trước năm 1990, cần dựa trên mốc thời gian công bố Pháp lệnh Thừa kế. Điều này mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng, bởi lẽ trong bối cảnh lịch sử Việt Nam, nhiều vụ tranh chấp thừa kế liên quan đến tài sản do cha mẹ, ông bà để lại từ trước 1975 hoặc những năm 80, nhưng con cháu không được chia di sản vì thiếu hành lang pháp lý rõ ràng. Việc ấn định mốc khởi đầu thời hiệu là ngày 10/9/1990 giúp bảo vệ quyền khởi kiện hợp pháp của các đồng thừa kế, đặc biệt là những người bị gạt ra khỏi quyền sở hữu hoặc không biết về quyền thừa kế của mình trong nhiều năm.

  • Thời hiệu chia thừa kế là bất động sản kéo dài 30 năm và không dễ bị mất quyền dù không phản đối

Án lệ cũng làm sáng tỏ rằng theo quy định của Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu chia di sản là bất động sản là 30 năm, khác với 10 năm đối với di sản là động sản. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả, việc một người không sử dụng tài sản, không quản lý hoặc không phản đối trong thời gian dài không mặc nhiên làm mất quyền thừa kế, nếu không có bằng chứng rõ ràng cho thấy họ đã từ bỏ quyền một cách tự nguyện.

Trong thực tiễn, rất nhiều người thừa kế – đặc biệt là con của người vợ trước, hoặc người sống xa – không hề biết về tài sản thừa kế hoặc không có điều kiện yêu cầu chia tài sản ngay sau khi người để lại di sản qua đời. Án lệ khẳng định rằng chỉ khi người thừa kế có hành vi cụ thể thể hiện ý chí từ bỏ (như văn bản từ chối, chuyển nhượng phần thừa kế) thì quyền yêu cầu chia mới bị xem là mất. Còn lại, sự im lặng, thiếu tiếp cận hoặc không sinh sống trên đất không thể bị suy đoán là từ bỏ quyền.

  • Làm rõ vấn đề không sử dụng tài sản không đồng nghĩa với việc từ bỏ quyền thừa kế, đồng thời người chiếm giữ tài sản, không phải người đòi chia thừa kế

Một quan điểm đặc biệt quan trọng trong án lệ là: việc không phản đối, không sử dụng tài sản, không yêu cầu chia phần trong suốt thời gian dài không được suy đoán là đã từ bỏ quyền thừa kế, nếu người đó không có hành vi rõ ràng thể hiện sự từ chối. Điều này bảo vệ người thừa kế thường là ở xa, không sống chung.

Trong vụ án, các con người vợ cả không hề được chia tài sản, cũng không biết rõ về quyền của mình trong suốt nhiều năm. Án lệ nhấn mạnh rằng quyền thừa kế chỉ mất khi có căn cứ chắc chắn cho thấy họ tự nguyện từ bỏ, chứ không phải chỉ vì im lặng hoặc không sinh sống tại tài sản tranh chấp.

Ngoài ra án lệ còn nhấn mạnh: người đang quản lý, sử dụng tài sản thừa kế (thường là con sống chung, hoặc con vợ sau) có nghĩa vụ chứng minh quyền chiếm hữu hợp pháp – chẳng hạn: đã có thỏa thuận phân chia, từ chối nhận thừa kế từ các đồng thừa kế còn lại. Không thể suy đoán quyền sở hữu chỉ vì đã ở lâu hay có kê khai hành chính.

5. Các câu hỏi thường gặp

(1) Nếu người để lại di sản mất trước năm 1990 thì thời hiệu yêu cầu chia thừa kế tính từ thời điểm nào?

*Trả lời: Thời hiệu trong trường hợp này không tính từ ngày mất của người để lại di sản, mà bắt đầu tính từ ngày 10/9/1990, là ngày Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 chính thức có hiệu lực. Lý do là trước thời điểm đó, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế, do đó không thể áp dụng nguyên tắc “hết thời hiệu” khi chưa có cơ sở pháp lý để xác định quyền và nghĩa vụ.

(2) Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với bất động sản là bao nhiêu năm?

*Trả lời: Thời hiệu để yêu cầu chia thừa kế đối với bất động sản theo quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành là 30 năm, tính từ thời điểm mở thừa kế (người để lại di sản qua đời), hoặc trong trường hợp người chết trước 1990 thì tính từ ngày 10/9/1990 như án lệ đã xác định. Hết thời hiệu này, người thừa kế không còn quyền khởi kiện nhưng vẫn có thể thỏa thuận phân chia hoặc khởi kiện yêu cầu công nhận phần tài sản thuộc quyền sở hữu thực tế nếu có căn cứ.

(3) Nếu một người thừa kế đã chết, thì con của họ có được quyền yêu cầu chia phần di sản của cha/mẹ họ không?

*Trả lời: Có. Đây là nguyên tắc "thừa kế thế vị" theo Bộ luật Dân sự. Con của người thừa kế đã chết sẽ được "thế vị" và hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ họ lẽ ra được nhận nếu còn sống tại thời điểm mở thừa kế

Tin tức liên quan

NHỮNG CÂU CHUYỆN THỪA KẾ ĐÌNH ĐÁM Ở VIỆT NAM

NHỮNG CÂU CHUYỆN THỪA KẾ ĐÌNH ĐÁM Ở VIỆT NAM

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam, các vụ thừa kế tài sản luôn thu hút sự chú ý đặc biệt, không chỉ vì giá trị tài sản khổng lồ mà còn vì những diễn biến phức tạp và đôi khi gây bất ngờ. Dưới đây là tổng hợp những câu chuyện thừa kế "đình đám" ở Việt Nam.

ĐỒNG THỪA KẾ CHUYỂN NHƯỢNG DI SẢN THỪA KẾ ĐỂ CHĂM LO CUỘC SỐNG CỦA CÁC ĐỒNG THỪA KẾ KHÁC CÓ ĐƯỢC KHÔNG?

ĐỒNG THỪA KẾ CHUYỂN NHƯỢNG DI SẢN THỪA KẾ ĐỂ CHĂM LO CUỘC SỐNG CỦA CÁC ĐỒNG THỪA KẾ KHÁC CÓ ĐƯỢC KHÔNG?

Quyết định giám đốc thẩm số 573/2013/DS-GĐT ngày 16-12-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế tài sản” tại tỉnh Vĩnh Phúc.

CÓ ĐƯỢC TÍNH CÔNG SỨC ĐÓNG GÓP, TẠO DỰNG TRONG VỤ ÁN THỪA KẾ DÙ KHÔNG CÓ YÊU CẦU CỤ THỂ KHÔNG?

CÓ ĐƯỢC TÍNH CÔNG SỨC ĐÓNG GÓP, TẠO DỰNG TRONG VỤ ÁN THỪA KẾ DÙ KHÔNG CÓ YÊU CẦU CỤ THỂ KHÔNG?

Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Zalo