PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC

Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, trong trường hợp di chúc là hợp pháp thì di sản sẽ được phân chia theo ý muốn của người để lại di sản. Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định những trường hợp được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Với bài viết này, Luật sư thừa kế sẽ nêu ra một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc qua những phân tích, tìm hiểu về đề tài này như dưới đây.

1. Người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc

a. Đối tượng được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Điều 644 Bộ luật Dân sự hiện hành quy định những người hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào di chúc bao gồm:

  • Con chưa thành niên;
  • Cha, mẹ;
  • Vợ, chồng;
  • Con thành niên mà không có khả năng lao động.

Pháp luật quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhằm hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có cùng quan hệ huyết thống, hoặc quan hệ hôn nhân thân thiết, gần gũi với người để lại di sản thừa kế, khi người lập di chúc truất quyền hưởng di sản của họ, hoặc có cho hưởng di sản nhưng phần mà họ được hưởng theo di chúc ít hơn 2/3 của một suất thừa kế nếu di sản được chia theo pháp luật.

b. Điều kiện được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Di sản của người chết chỉ được chia cho người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc khi thoả mãn các điều kiện sau:

  • Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự.
  • Không thuộc trường hợp từ chối nhận di sản thừa kế theo quy định tại điều 620 Bộ luật Dân sự 2015.
  • Người hưởng di sản không thuộc đối tượng quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm:
  • Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
  • Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
  • Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
  • Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

2. Trong trường hợp người để lại di sản còn di sản nằm ngoài di chúc, người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc có được nhận thêm phần di sản này không?

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 650 Bộ luật Dân sự thì phần di sản nằm ngoài di chúc được quy định chia thừa kế theo pháp luật.

Theo đó, những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được nhận thêm phần di sản nằm ngoài di chúc khi phân chia. Phần di sản nằm ngoài nội dung di chúc được phân chia theo nguyên tắc bằng nhau giữa những người thừa kế cùng hàng.

3. Quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhìn từ thực tiễn xét xử tại Tòa án

Theo Thạc sĩ Phan Thị Hồng - Trường Đại học Luật, Đại học Huế, mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định khá hoàn chỉnh vấn đề thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế, tuy nhiên, dưới góc độ thực tiễn xét xử vẫn còn một số bất cập cần sớm khắc phục. Để có cái nhìn rõ nét hơn, tác giả xin viện dẫn một số ví dụ cụ thể sau đây:

Ví dụ 1:

Ông Đ và bà T là vợ chồng có đăng ký kết hôn ngày 26/5/1967 tại Ủy ban nhân dân xã M huyện N tỉnh B, có một con chung là chị H. Sau ngày miền Nam giải phóng, ông Đ chuyển công tác vào tỉnh G còn mẹ con bà T vẫn ở lại tỉnh B. Ngày 07/10/1992, ông Đ nhận chuyển nhượng 500m2 đất tại xã X huyện Y tỉnh G để cất nhà. Ngày 20/10/1994, ông Đ làm thủ tục đăng ký kết hôn với bà C và chung sống với bà C. Năm 2001, ông Đ có lập di chúc cho bà C hưởng toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, đồ dùng trong gia đình. Năm 2003, ông Đ chết thì vợ chồng chị H đã vào ở tại căn nhà này cùng bà C, sau đó xảy ra tranh chấp khối di sản nói trên. Bà C yêu cầu được hưởng thừa kế theo di chúc ông Đ để lại. Chị H cho rằng, bà C lấy ông Đ là bất hợp pháp nên chị không đồng ý yêu cầu hưởng thừa kế của bà C. Bà T có ý kiến rằng, căn nhà nói trên là do ông Đ tạo lập khi đang trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp với bà nên đây là tài sản chung của bà và ông Đ, do đó, bà không nhất trí theo yêu cầu của bà C. Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết theo pháp luật để bà cùng chị H được hưởng thừa kế của ông T.

Tòa án nhân dân huyện Y tỉnh G đã nhận định: Bà T là vợ hợp pháp của ông Đ, xác định quan hệ hôn nhân giữa bà C và ông Đ là trái pháp luật do khi lấy bà C, ông Đ đã có vợ hợp pháp và chưa ly hôn. Tuy căn nhà trên diện tích 500m2 đất tại xã X huyện Y tỉnh G được ông Đ tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà T vẫn tồn tại, nhưng giữa ông Đ và bà T có kinh tế riêng và ông Đ đứng tên riêng đối với nhà đất trên, hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, bà T thừa nhận căn nhà là do ông Đ tạo lập và là tài sản riêng của ông Đ và thực tế thì ông Đ đã chuyển vào tỉnh G công tác từ năm 1975, đến năm 1992, ông Đ mới nhận chuyển nhượng mảnh đất nói trên để xây nhà, còn bà T và chị H vẫn ở tỉnh B, do đó, có cơ sở xác định căn nhà trên diện tích 500m2 đất tọa lạc tại xã X huyện Y tỉnh G là tài sản riêng của ông Đ. Vì vậy, ông Đ có quyền lập di chúc cho bà C thừa kế. Xác định di chúc của ông Đ lập ngày 27/02/2001 do ông Đ viết có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã X huyện Y tỉnh G là di chúc hợp pháp.

Từ đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà C, tuyên: Bà C được hưởng thừa kế theo di chúc ngày 27/02/2001 của ông Đ gồm các tài sản và nhà đất tọa lạc tại xã X huyện Y tỉnh G đã được ghi nhận tại biên bản xác minh đo đạc ngày 26/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Y. Bác yêu cầu phản tố của chị H và bà T kiện bà C tranh chấp chia tài sản thừa kế theo pháp luật đối với căn nhà và đất nói trên. Tòa án đã bác bỏ quyền hưởng thừa kế của bà T vì xác định tài sản ông Đ định đoạt trong di chúc là tài sản riêng của ông Đ nên không liên quan đến bà T, để cho bà C được hưởng toàn bộ di sản của ông Đ là có sự thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, chưa thuyết phục và ảnh hưởng đến quyền lợi của bà T. Bà T là vợ hợp pháp của ông Đ (theo xác định của Tòa án), theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 (trước đây là Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005) thì bà T thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cho nên phải được hưởng một kỷ phần thừa kế ít nhất bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật trong trường hợp người lập di chúc không cho hưởng.

Ví dụ 2:

Cụ Nguyễn Thị K có ba người con là bà M, ông Q và ông N. Năm 2005, cụ K chết có để lại di chúc cho ông N được hưởng thừa kế căn nhà tại phường T, thành phố H. Mặc dù theo di chúc của cụ K thì toàn bộ căn nhà này được để lại cho ông N nhưng vì tại thời điểm mở thừa kế, bà M đã 71 tuổi lại mang nhiều bệnh tật như huyết áp, tiểu đường, năm 2006 bị ngã và nằm liệt cho đến nay nên bà M yêu cầu được hưởng thừa kế di sản của cụ K theo quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Ông Q cũng yêu cầu được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vì tại thời điểm mở thừa kế, ông Q đã 68 tuổi, thương binh hạng 2/4, không có khả năng lao động. Ông N xác định phần trình bày của các nguyên đơn về quan hệ huyết thống là đúng; về nhà đất tranh chấp, năm 2004, cụ K đã lập di chúc để lại cho ông toàn bộ căn nhà này nên ông không đồng ý với yêu cầu được hưởng thừa kế di sản mà các nguyên đơn nêu ra.

Quá trình giải quyết, Tòa án đã nhận định: Xét yêu cầu của ông Q, bà M về việc được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, tại Điều 140, Điều 145 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 đến 60 tuổi đối với nam và từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ. Bên cạnh đó, Bộ luật Lao động còn có các quy định về chế độ đối với người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ 61 tuổi trở lên đối với nam. Như vậy, pháp luật không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao động mà việc tham gia quan hệ lao động tùy thuộc vào thể lực, trí lực và tinh thần của từng người. Do đó, độ tuổi lao động là cơ sở xác định người hết tuổi lao động để được hưởng các chế độ đãi ngộ chứ không phải là căn cứ để xác định một người không còn khả năng lao động. Hơn nữa, từ trước đến nay, ông Q, bà M có đời sống kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào cụ K. Bà M có gia đình, có tài sản riêng, bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước theo diện người có công với cách mạng, còn ông Q tuy là thương binh hạng 2/4, theo quy định thì ông bị suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng ông cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước, nên Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà M, ông Q về người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Trên cơ sở nhận định này, Tòa án đã không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà M và ông Q về việc được hưởng di sản của cụ K theo diện người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Theo tác giả, cách giải quyết của Tòa án với việc nhận định để xác định bà M và ông Q không thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc như trên là chưa thuyết phục vì các lý do sau đây:

Thứ nhất, Bộ luật Dân sự năm 2005 tại Điều 669 (hiện nay là Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015) quy định về đối tượng được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Những người này được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc với kỷ phần thừa kế là “bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật” khi “không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó”. Như vậy, pháp luật không có quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005 (nay là điểm b khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015) phải là người không có khả năng lao động tại thời điểm mở thừa kế, do đó, có thể hiểu rằng, một người thừa kế tại thời điểm mở thừa kế có khả năng lao động, nhưng tại thời điểm chia di sản họ bị mất khả năng lao động do tai nạn hoặc bệnh tật thì vẫn thuộc trường hợp là người không có khả năng lao động.

Thứ hai, trong ví dụ 2, bà M không chỉ nại rằng tại thời điểm mở thừa kế, bà đã 71 tuổi mà còn trình bày bà bị ngã vào năm 2006 và nằm liệt cho đến nay để xin hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Tòa án căn cứ vào quy định về độ tuổi của người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động và căn cứ vào việc bà M hàng tháng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với người có công với cách mạng để bác yêu cầu của bà M là chưa hợp tình, hợp lý. Bởi quyền thừa kế khác với quyền hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước, không thể đánh đồng hai quyền này. Việc bà M được hưởng chế độ đãi ngộ là do bà có công với cách mạng, không liên quan gì đến việc bà có quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của bà M là do bà có quan hệ huyết thống với người lập di chúc nên thuộc diện được hưởng quyền này.

Quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là nhằm bảo vệ những người thân thích, gần gũi nhất của người chết khi họ không được cho hưởng di sản, giúp đỡ họ vơi bớt khó khăn trong cuộc sống. Người không có khả năng lao động là con của người lập di chúc là một trong số những người thuộc diện đó. Bà M không chỉ đã cao tuổi mà còn bệnh tật nằm liệt giường. Nếu chỉ căn cứ vào thời điểm mở thừa kế để xem xét khả năng lao động của một người nhằm gạt họ ra khỏi diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là vô tình đẩy họ vào con đường khó khăn mà chắc chắn nếu người lập di chúc còn sống cũng không muốn điều đó và khi đó thì quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 không còn thể hiện được tính nhân văn của nó nữa.

4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án

Cũng theo Thạc sĩ Phan Thị Hồng, pháp luật không quy định thời điểm xác định người “không có khả năng lao động” để làm căn cứ cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là thời điểm nào. Do đó, việc áp dụng pháp luật cần đặt lợi ích của người đó lên trước để cân bằng quyền lợi giữa những người thừa kế.

Mặt khác, Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định con chưa thành niên được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, nhưng việc xác định con chưa thành niên tại thời điểm mở thừa kế hay tại thời điểm chia di sản thì Bộ luật Dân sự cũng chưa quy định. Nếu xác định độ tuổi của người chưa thành niên và khả năng lao động của người đã thành niên theo quy định tại Điều 644 nêu trên vào thời điểm mở thừa kế sẽ có những trường hợp không “hợp tình”.

Tác giả đặt ra giả thiết như sau: Ông A có ba người con là B (sinh năm 1990, chưa có vợ con, công việc ổn định), C (sinh năm 1993, chưa có vợ con, công việc ổn định) và D (sinh năm 2009, đang còn đi học). Vợ ông A đã chết trong một tai nạn, cha mẹ của ông A đều đã chết. Năm 2017, ông A lập di chúc cho C hưởng toàn bộ di sản. Năm 2018, ông A bị bệnh chết. Năm 2019, B bị tai nạn giao thông bị bại liệt, mất khả năng lao động. Năm 2020, khi chia di sản thừa kế của ông A, cả D và B yêu cầu được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Tòa án xác định D thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nên cho hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, bác yêu cầu của B, vì tại thời điểm mở thừa kế, B có khả năng lao động, kinh tế ổn định. Vậy, chúng ta thấy rằng, cách giải quyết này vừa không hợp tình vừa không hợp lý. Không hợp tình vì lúc này, người cần bảo vệ hơn ai hết là B, không hợp lý vì Bộ luật Dân sự chỉ quy định: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản…” chứ không quy định: “Tại thời điểm mở thừa kế, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản …”. Do đó, thiết nghĩ cần có cách hiểu thống nhất về quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tác giả kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất quy định này theo hướng: Xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên của người chết mà không có khả năng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời điểm xác định là thời điểm chia di sản mà không xác định vào thời điểm mở thừa kế.

Trong khi luật không có quy định cụ thể, chúng ta nên giải thích luật theo hướng có lợi nhất cho đương sự để bảo đảm hài hòa lợi ích cho các bên. Chính vì vậy, để khắc phục những bất cập nêu trên, thiết nghĩ, khi giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc, nếu Tòa án quyết định chia di sản thừa kế theo di chúc thì cần xem xét có người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hay không để chia phần thừa kế này cho họ mới đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người thừa kế. Trường hợp Tòa án xác định có người thừa kế được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhưng họ đã được hưởng di sản theo pháp luật hoặc theo di chúc lớn hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật thì Tòa án phải lập luận trong bản án để giải thích cho họ hiểu vì sao người đó thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhưng Tòa án không xem xét chia phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc cho họ. Có như vậy, lập luận của Tòa án trong bản án mới có tính thuyết phục cao và đương sự cũng hiểu được quyền lợi của họ đã được bảo vệ trên cơ sở thượng tôn pháp luật.

Tin tức liên quan

ĐIỀU KIỆN ĐỂ DI CHÚC HỢP PHÁP

ĐIỀU KIỆN ĐỂ DI CHÚC HỢP PHÁP

Di chúc là một văn bản pháp lý quan trọng, cho phép cá nhân định đoạt tài sản của mình theo ý chí riêng, đảm bảo quyền lợi của người thừa kế và giảm thiểu tranh chấp sau khi người lập di chúc qua đời. Trong thực tiễn, việc lập di chúc không chỉ đơn thuần là ghi lại mong muốn của người lập di chúc mà còn đòi hỏi tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật để đảm bảo hiệu lực thi hành. Để đảm bảo di chúc được công nhận và có hiệu lực thi hành theo quy định pháp luật, người lập di chúc cần nắm các điều kiện để chúc được coi là hợp pháp, cũng như những lưu ý pháp lý thiết yếu trong quá trình lập di chúc nhằm đảm bảo tính minh bạch và tránh phát sinh tranh chấp. Luật sư thừa kế sẽ giải đáp vấn đề pháp lý này như sau.

PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ TRONG TRƯỜNG HỢP KHÔNG CÓ DI CHÚC HOẶC CÓ DI CHÚC NHƯNG DI CHÚC KHÔNG HỢP PHÁP?

PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ TRONG TRƯỜNG HỢP KHÔNG CÓ DI CHÚC HOẶC CÓ DI CHÚC NHƯNG DI CHÚC KHÔNG HỢP PHÁP?

Trên thực tế, có nhiều nguyên nhân khác nhau mà người để lại di sản không để lại di chúc hoặc để lại di chúc nhưng di chúc lại không đáp ứng đủ các điều kiện hợp pháp theo quy định của pháp luật. Vậy vấn đề này được hiểu cụ thể ra sao và việc phân chia di sản thừa kế sẽ được thực hiện như thế nào? Luật sư thừa kế sẽ giải đáp vấn đề pháp lý này như sau.

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CĂN CỨ XÁC LẬP DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CĂN CỨ XÁC LẬP DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG

Di sản dùng vào việc thờ cúng là chế định lâu đời, được ghi nhận trong pháp luật dân sự từ thời kỳ phong kiến đến nay, thể hiện một trong những phong tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Mặc dù việc hình thành loại tài sản này trên thực tế có thể xuất phát từ nhiều căn cứ khác nhau, tuy nhiên pháp luật dân sự hiện nay chỉ ghi nhận duy nhất trường hợp khi một người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

Zalo