KHI NÀO DI CHÚC MIỆNG CÓ HIỆU LỰC?
*Bạn đọc hỏi: anh Võ Mai Lâm, ở Q.Thanh Khê (TP Đà Nẵng), hỏi: Khi còn sống, bạn tôi có khối tài sản nhà đất tại Q.Hải Châu (TP Đà Nẵng) và 1 sổ tiết kiệm gần 1 tỷ đồng. Vào tháng 5-2022, vì lý do sức khỏe nên bạn tôi phải nhập viện và tôi là người đưa bạn vào viện. Trong lúc nguy kịch, bạn tôi có nói là sẽ để lại toàn bộ khối tài sản trên cho tôi. Khi bạn tôi nói điều đó, có bác sĩ và điều dưỡng cùng nghe. Một thời gian sau sức khỏe của bạn tôi bình phục hoàn toàn, nhưng bất ngờ đầu tháng 3-2023, bạn tôi bị tai nạn và không may qua đời. Cho tôi hỏi, nay tôi có quyền nhận toàn bộ tài sản của bạn tôi theo lời bạn tôi đã nói trong lúc nguy kịch tại bệnh viện được không? Tôi được biết bạn tôi còn một người thân duy nhất là em gái ruột hiện đang sinh sống ở TPHCM.
*Luật sư trả lời:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, di chúc có hai hình thức là di chúc được lập bằng văn bản và di chúc bằng miệng. Di chúc bằng văn bản bao gồm bốn loại như sau:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản không có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có công chứng.
Đối với di chúc miệng, Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
2. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.”
Như vậy, di chúc miệng là một trong những hình thức di chúc được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, để được hợp pháp, di chúc miệng cần đáp ứng các điều kiện được quy định cụ thể tại Điều 630 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
Người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng;
Ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ;
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Về người làm chứng, Điều 633 Bộ luật Dân sự quy định những người sau đây không được là người làm chứng cho việc lập di chúc (bao gồm di chúc bằng văn bản hoặc di chúc miệng):
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Điều 637 Bộ luật Dân sự quy định những người sau đây không được thực hiện việc công chứng, chứng thực di chúc:
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Theo thông tin anh Lâm cung cấp, mặc dù bạn của anh đã thể hiện ý chí để lại tài sản cho anh trước mặt bác sĩ và điều dưỡng, có thể xem là đã lập di chúc miệng; nhưng di chúc này chưa đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật để đảm bảo có hiệu lực như đã phân tích ở trên. Ngoài ra, sau hơn 3 tháng kể từ thời điểm được coi là lập di chúc miệng, bạn của anh còn sống khỏe mạnh nên di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ. Từ đó, có thể thấy anh Lâm không đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế từ người bạn của mình. Di sản của người bạn sẽ được chia theo pháp luật như sau:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Người bạn của anh Lâm còn có một người em gái (người thân duy nhất), thì người em gái này sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai, có quyền hưởng di sản do anh trai mình để lại.
Bài Viết Nhiều Người Xem
Tin tức liên quan
DI SẢN CỦA ÔNG NỘI BỊ CHÚ ĐỘC CHIẾM, CHÁU LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA MÌNH?
Bạn đọc hỏi: anh Nguyễn Hữu Tài, ở TP Đà Nẵng hỏi: ông nội tôi có 4 người con, bao gồm ông Nguyễn Hùng (cha đẻ của tôi, mất năm 1996, có 3 người con), ông Nguyễn Hưng, ông Nguyễn Hậu và bà Nguyễn Thị Hiền. Năm 2017, ông nội tôi chết không có di chúc và để lại di sản là 1 thửa đất vườn có diện tích 2.278m2 (di sản thừa kế) đứng tên ông nội tôi là Nguyễn Chung, tại TP Quảng Ngãi (tỉnh Quảng Ngãi). Lợi dụng việc quản lý di sản thừa kế của ông nội, chú Hậu đã tự ý lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản mà không có sự thống nhất của những người anh em khác, tiến hành sang tên di sản thừa kế thành tên ông Hậu trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và làm thủ tục tách thửa thành 6 thửa đất chuyển cho các con của chú Hậu đứng tên. Hiện, chú Hậu và các con của chú đang tìm cách chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho các cá nhân khác. Cho tôi hỏi tôi có được xác định là một trong những đồng thừa kế của ông nội tôi không? Nếu có, tôi cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?
ĐẤT CHƯA CÓ SỔ ĐỎ, CÓ ĐƯỢC LẬP DI CHÚC KHÔNG?
Hiện nay có tình trạng đất được sử dụng khá lâu đời nhưng người sử dụng đất vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hay thường gọi là sổ đỏ. Nguyên nhân có thể do đất không đủ điều kiện được cấp sổ đỏ theo quy định của pháp luật hoặc do người sử dụng đất chưa tiến hành làm thủ tục cấp sổ đỏ hoặc một nguyên nhân cụ thể nào đó. Trong trường hợp này, liệu người sử dụng đất có thể lập di chúc không? Pháp luật quy định về việc lập di chúc đối với đất chưa có sổ đỏ như thế nào? Dưới đây là chia sẻ của Luật sư về vấn đề này.
KHI NÀO PHẢI DÙNG PHẦN DI TẶNG ĐỂ TRẢ NỢ?
*Bạn đọc hỏi: anh Đào Hùng Trưởng, ở Q.Sơn Trà (TP Đà Nẵng), hỏi: Dì tôi có lập một bản di chúc, trong đó dì để lại nhà và đất cho chồng con dì; đồng thời, dì có cho tôi một quyển sổ tiết kiệm (được ghi trong di chúc là tặng cho tôi) với số tiền gốc là 500 triệu đồng. Tuy nhiên, nay các chủ nợ đến yêu cầu chồng con dì thanh toán khoản nợ hơn 5 tỷ đồng mà dì đã vay khi còn sống. Xin cho tôi hỏi, chồng và con của dì tôi có nghĩa vụ trả nợ thay cho dì tôi không? Tôi có nghĩa vụ phải trả khoản vay trên cùng chồng con dì của tôi không?